Siêu âm b mode là gì? Các công bố khoa học về Siêu âm b mode

Siêu âm B-mode là một phương pháp siêu âm trong y học để tạo ra hình ảnh tĩnh của các cơ quan và các cấu trúc bên trong cơ thể. Trong chế độ B-mode, sóng siêu â...

Siêu âm B-mode là một phương pháp siêu âm trong y học để tạo ra hình ảnh tĩnh của các cơ quan và các cấu trúc bên trong cơ thể. Trong chế độ B-mode, sóng siêu âm được phát và thu lại liên tục để tạo ra hình ảnh hai chiều của vùng quan tâm trong cơ thể. Các hình ảnh này được hiển thị dưới dạng các điểm ảnh trắng đen hoặc màu xám, trong đó các tế bào mềm sẽ xuất hiện dưới dạng các điểm trắng và mô màu thâm xuất hiện trong các điểm đen. Phương pháp siêu âm B-mode rất hữu ích trong việc xem xét các bướu, các khối u, các tổn thương hay các cơ quan và mạch máu bên trong cơ thể.
Trong chế độ B-mode, sóng siêu âm được phát từ một dụng cụ gọi là dò siêu âm. Dò siêu âm gửi sóng siêu âm vào cơ thể và thu lại sóng phản xạ từ các cấu trúc bên trong cơ thể. Sóng phản xạ được biến đổi thành điện áp và sau đó được biểu diễn dưới dạng hình ảnh trên màn hình hiển thị.

Hình ảnh được tạo ra trong chế độ B-mode thường là hình ảnh hai chiều tĩnh của cơ thể. Các tạp chất, cấu trúc cơ thể và mạch máu sẽ có các đặc điểm khác nhau, cho phép các cấu trúc này được phân biệt trong hình ảnh. Trong hình ảnh B-mode, các điểm ảnh có mật độ cao hơn thường được hiển thị dưới dạng màu trắng hoặc sáng, trong khi các điểm ảnh có mật độ thấp hơn được hiển thị dưới dạng màu đen hoặc tối.

Chế độ B-mode thường được sử dụng để xem xét các cơ quan bên trong cơ thể như tụy, gan, thận, tử cung, vú, nguyên tủy xương, thai nhi và các khối u hoặc bướu. Nó cũng có thể giúp xác định vị trí và kích thước của các mạch máu và giúp phát hiện các vấn đề như các cục máu đông hoặc các tắc nghẽn mạch máu.

Siêu âm B-mode đã trở thành một công cụ quan trọng trong chẩn đoán y tế, không chỉ vì tính an toàn và không xâm lấn của nó, mà còn vì khả năng tạo ra hình ảnh tốt và chi tiết của cơ thể con người.
Trong chế độ B-mode, hình ảnh được tạo ra bằng cách sử dụng sóng siêu âm liên tục và dữ liệu thu được từ nhiều điểm trong cơ thể được hiển thị trên màn hình dưới dạng hàng và cột điểm ảnh.

Dò siêu âm sẽ di chuyển trên da và áp dụng một hợp chất dẫn gel để tạo một liên lạc tốt giữa dò và da. Khi sóng siêu âm tác động vào các cấu trúc bên trong cơ thể, nó sẽ phản xạ trở lại dưới dạng sóng âm được thu lại bởi dò. Các sóng âm thu lại sẽ được chuyển thành tín hiệu điện đi qua thiết bị điện tử và sau đó được biến đổi thành hình ảnh trên màn hình.

Hình ảnh B-mode sẽ hiển thị các cấu trúc bên trong cơ thể dưới dạng các điểm ảnh trắng và đen, sắp xếp theo cấu trúc và mật độ của các tế bào. Các tế bào mềm sẽ có độ phản xạ cao hơn và do đó được hiển thị dưới dạng điểm ảnh trắng. Trong khi đó, các cấu trúc một ít thưa, chẳng hạn như chất lỏng hoặc không có tế bào, sẽ có độ phản xạ thấp hơn, do đó được hiển thị dưới dạng điểm ảnh đen.

Phương pháp siêu âm B-mode cho phép xem xét chi tiết các cấu trúc bên trong cơ thể như khối u, bướu, dị vật, mạch máu, tuyến tiền liệt, con trượt, tử cung, tụy, gan, lòng mạch và giải phẫu thai nghén. Điều này giúp phát hiện các vấn đề y tế, xác định kích thước, vị trí và hình dạng của các cấu trúc và hỗ trợ trong quá trình chẩn đoán và điều trị.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "siêu âm b mode":

BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP: Ảnh Hưởng của Liệu Pháp Đồng Bộ Tim đến Cơ Chế Cơ Học Tâm Thất Trái Dọc và Xuyên qua Bằng Hình Ảnh Vector Tốc Độ: Mô Tả và Ứng Dụng Lâm Sàng Ban Đầu của Một Phương Pháp Mới Sử Dụng Hình Ảnh Siêu Âm B-Mode Tốc Độ Cao Dịch bởi AI
Echocardiography - Tập 22 Số 10 - Trang 826-830 - 2005

Liệu pháp đồng bộ tim (CRT) đã xuất hiện như một phương pháp quan trọng để điều trị bệnh nhân suy tim có triệu chứng với chứng minh về sự không đồng bộ nội tâm. Hình ảnh Doppler mô bằng siêu âm đã cho thấy là một công cụ tuyệt vời để đánh giá sự không đồng bộ cơ học của tâm thất trái và lựa chọn bệnh nhân cho CRT. Tuy nhiên, có một số bệnh nhân không cho thấy cải thiện triệu chứng sau CRT. Một giải thích có thể cho điều này là cần tối ưu hóa không chỉ sự đồng bộ theo chiều dọc mà còn cải thiện động lực xuyên tâm và bán kính của tâm thất trái. Hình ảnh Doppler không cho phép đánh giá đáng tin cậy các yếu tố này do tính chất phụ thuộc góc của kỹ thuật. Hình ảnh Vector Tốc Độ (VVI) là một kỹ thuật mới không phụ thuộc vào góc và do đó cung cấp một hướng để đánh giá cơ học ngắn trục của tâm thất trái. Chúng tôi mô tả một trường hợp trong đó VVI được sử dụng để đánh giá động lực học của tâm thất trái ở một bệnh nhân suy tim không đáp ứng với CRT. (SIÊU ÂM TIM, Tập 22, Tháng 11 Năm 2005)

#Liệu pháp đồng bộ tim #Suy tim #Hình ảnh Doppler mô #Hình ảnh Vector Tốc Độ #Cơ học tâm thất trái
Phương pháp sinh siêu liên tục trải rộng quãng tám với công suất cao dựa trên hiệu ứng tán xạ Raman trong sợi quang đa mode chỉ số phân bố Dịch bởi AI
Scientific Reports - Tập 8 Số 1
Tóm tắt

Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo một phương pháp mới để tạo ra siêu liên tục với mức công suất nhiều watt, trải rộng quãng tám, có phổ phẳng, bắt nguồn từ hiệu ứng tán xạ Raman nối tiếp trong các sợi quang đa mode có chỉ số phân bố. Động lực hình thành siêu liên tục được nghiên cứu bằng cách khảo sát ảnh hưởng của chiều dài sợi và kích thước lõi. Khả năng xử lý công suất cao của các sợi quang đa mode có chỉ số phân bố được chứng minh qua các thí nghiệm mở rộng công suất. Tần số lặp lại xung bơm được mở rộng từ kHz lên MHz trong khi công suất đỉnh của xung bơm giữ nguyên và ~4 W siêu liên tục đạt được với tần số lặp lại bơm 2 MHz. Đến thời điểm hiện tại, đây là nguồn siêu liên tục có công suất trung bình và tần số lặp lại cao nhất đã được báo cáo dựa trên sợi silicat đa mode có chỉ số phân bố. Các thuộc tính không gian của siêu liên tục được tạo ra được đo và các profile chùm tia tương tự Gauss được thu được cho các dải bước sóng khác nhau. Các mô phỏng số được thực hiện để điều tra chi tiết động lực phi tuyến cơ bản và phù hợp tốt với các quan sát thực nghiệm.

Sự phát sinh siêu liên tục trong sợi tinh thể pho-ton cỡ lớn cho siêu quang phổ học Raman chống Stokes đồng bộ Dịch bởi AI
Scientific Reports - Tập 8 Số 1
Tóm tắt

Chúng tôi thực hiện một cuộc điều tra lý thuyết và thực nghiệm chi tiết về sự phát sinh siêu liên tục trong các sợi tinh thể photon cỡ lớn, được bơm bằng laser Nd:YVO4 picô giây có năng lượng cao và tần suất lặp lại cao, với mục tiêu sử dụng nó làm chùm sáng Stokes trong thiết lập phân tán Raman chống Stokes đồng bộ. Chúng tôi phân tích ảnh hưởng của cấu trúc và chiều dài sợi đến công suất siêu liên tục, hình dạng phổ, và độ phân tán độ trễ nhóm. Chúng tôi xác định điều kiện thí nghiệm để phát sinh siêu liên tục ổn định, với năng lượng xung ở cấp độ microjoule và phổ mở rộng vượt quá 1600 nm, cho phép kích thích tần số Raman lên đến 3000 cm−1 và hơn thế nữa. Chúng tôi chứng minh sự vận hành đáng tin cậy và hiệu quả của một thiết lập siêu quang phổ học Raman chống Stokes đồng bộ sử dụng nguồn siêu liên tục này.

Vách giữa tâm nhĩ trong siêu âm B‐mode và siêu âm tim thông thường ‐ một dấu hiệu cho chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh Dịch bởi AI
Journal of Clinical Ultrasound - Tập 3 Số 1 - Trang 29-37 - 1975
Abstract

Vách giữa tâm nhĩ đã được nghiên cứu bằng siêu âm B‐mode nhằm xác định xem có những đặc điểm siêu âm đặc trưng nào liên quan đến các bệnh tim bẩm sinh như thông liên nhĩ và khiếm khuyết đệm nội tâm mạc hay không. Trong các lớp cắt ngang ở không gian liên sườn thứ ba và thứ tư, vách giữa tâm nhĩ được phát hiện gần như song song với tường ngực trước. Vách này tiếp tục hướng sang trái đến tiếng vang của lá van trước của van hai lá. Khi vách giữa tâm nhĩ mở rộng vượt qua bờ ức trái, nó cũng có thể được ghi nhận gần bờ ức trái trong lớp cắt đứng. Vách giữa tâm nhĩ cũng có thể được ghi nhận bằng siêu âm tim thông thường. Hình dạng có dạng sóng và đồng bộ với nhịp tim với biên độ khoảng 10 mm. Nó được nhìn thấy gần tường ngực ở những bệnh nhân có sự giãn nở nhĩ trái và xa tường ngực ở những bệnh nhân có sự giãn nở nhĩ phải. Khiếm khuyết trong vách giữa tâm nhĩ đã được quan sát bằng siêu âm B‐mode và siêu âm tim thông thường ở những bệnh nhân có thông liên nhĩ kiểu ostium secundum. Các khiếm khuyết đã không còn được phát hiện sau khi phẫu thuật.

Một nhận xét về sự suy giảm của các tương quan siêu dẫn trong các mô hình Hubbard một và hai chiều Dịch bởi AI
Journal of Statistical Physics - Tập 75 - Trang 1179-1184 - 1994
Các giới hạn trên của sự suy giảm của nhiều hàm tương quan khác nhau được rút ra cho một lớp mô hình fermion lang thang chung với ma trận nhảy xa. Những giới hạn này mở rộng các kết quả trước đó của Koma và Tasaki và loại trừ khả năng có trật tự từ hóa cũng như sự ngưng tụ của các cặp electron siêu dẫn trong một và hai chiều ở nhiệt độ hữu hạn.
#siêu dẫn #mô hình Hubbard #tương quan #fermion lang thang #nhiệt độ hữu hạn
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VÚ CỦA SIÊU ÂM MODE B VÀ SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ - STRAIN ELASTOGRAPHY
TÓM TẮTMột nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán được thực hiện tại bệnh viện Bạch Mai với mục đích nghiên cứu giá trị của phương pháp siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng – Strain Elastography (SE) trong chẩn đoán ung thư vú (UTV).Kết quả: Bước đầu, chúng tôi đã thực hiện được trên 57 bệnh nhân (BN) với 61 tổn thương được chẩn đoán bằng siêu âm mode-B, siêu âm đàn hồi mô Strain Elastography tuyến vú, có đối chiếu với kết quả mô bệnh học. Phương pháp siêu âm mode-B có độ nhạy 87,5%, độ đặc hiệu 29,7%, giá trị dự báo dương tính 44,6% và giá trị dự báo âm tính 78,6%, độ chính xác 52,5%. Khi phối hợp siêu âm mode-B với siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng đã làm tăng giá trị chẩn đoán với độ nhạy 87,5%, độ đặc hiệu 67,6%, giá trị dự báo dương tính 56,7%, giá trị dự báo âm tính 89,3%, độ chính xác 75,4%.Kết luận: Siêu âm đàn hồi mô có thể chẩn đoán các tổn thương BI-RADS 3 và 4a tốt hơn, đặc biệt khi phối hợp với siêu âm vú mode -B, có thể tăng hoặc giảm bậc BI-RADS, làm tăng giá trị chẩn đoán của siêu âm từ52,5% lên75,4%.
#siêu âm mode-B #siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng #Strain Elastography #ung thư vú
VAI TRÒ CỦA SIÊU ÂM TIM 3D TRONG ĐÁNH GIÁ MẤT ĐỒNG BỘ THẤT VÀ DỰ BÁO TÁI CẤU TRÚC THẤT TRÁI Ở BỆNH NHÂN SAU NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ĐƯỢC CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của thể tích, phân số tống máu và chỉ số mất đồng bộ tâm thu thất trái đánh giá trên siêu âm tim 3D trong dự báo tái cấu trúc thất trái ở các bệnh nhân (BN) sau nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp. Đối tượng và phương pháp: Các BN NMCT cấp lần đầu, có chỉ định chụp động mạch vành (ĐMV), nong và đặt stent ĐMV, được làm siêu âm tim 2D (SAT2D) và siêu âm tim 3D (SAT3D) và được đánh giá lại kích thước và chức năng thất trái trên siêu âm tim sau 12 tháng. Kết quả: Từ tháng 12/2019 đến tháng 6/2021, 109 BN NMCT cấp có tuổi trung bình 63,5 ± 19,1, nam 72,4%, nữ 27,6% được nghiên cứu. Sau 12 tháng, 52 (49,1%) BN có tái cấu trúc thất trái trên SAT2D và 46 (42,2%) BN có tái cấu trúc thất trái trên SAT3D. So với nhóm không có tái cấu trúc thất trái trên SAT3D, nhóm có tái cấu trúc thất trái có chỉ số thể tích cuối tâm trương và chỉ số thể tích cuối tâm thu trên SAT3D cao hơn và có chỉ số mất đồng bộ tâm thu trên SAT3D cao hơn, p<0,05. Giá trị dự báo tái cấu trúc thất trái của chỉ số mất đồng bộ tâm thu với giá trị ngưỡng >4,9 là cao nhất với độ nhạy 81,6%, độ đặc hiệu 85,9%, AUC 0,79 với p<0,01, tiếp theo đến chỉ số thể tích thất trái cuối tâm trương (giá trị ngưỡng 114,4 ml/ m2, độ nhạy 72,4%, độ đặc hiệu 79,5%, AUC 0,78, p<0,05), rồi đến chỉ số thể tích thất trái cuối tâm thu (giá trị ngưỡng 67,3 ml/ m2, độ nhạy 70,7%, độ đặc hiệu 78,3%, AUC 0,78, p<0,05). Phân số tống máu EF không có giá trị dự báo tái cấu trúc thất trái (p>0,05). Các thông số về thể tích buồng thất trái trên SAT2D không có giá trị dự báo tái cấu trúc thất trái sau NMCT cấp 12 tháng (p>0,05). Kết luận: Chỉ số thể tích thất trái cuối tâm trương, chỉ số thể tích thất trái cuối tâm thu và chỉ số mất đồng bộ tâm thu trên SAT3D có giá trị dự báo tái cấu trúc thất trái sau NMCT cấp 12 tháng và nên được áp dụng trong thực hành lâm sàng.
#Siêu âm tim 3D #mất đồng bộ thất #tái cấu trúc thất trái #nhồi máu cơ tim.
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VÚ CỦA SIÊU ÂM MODE B VÀ SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ - STRAIN ELASTOGRAPHY
Một nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán được thực hiện tại bệnh viện Bạch Mai với mục đích nghiên cứu giá trịcủa phương pháp siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng – Strain Elastography (SE) trong chẩn đoán ung thư vú (UTV).Kết quả: Bước đầu, chúng tôi đã thực hiện được trên 22 bệnh nhân với 24 tổn thương được chẩn đoán bằng siêu âm mode-B, siêu âm đàn hồi mô Strain Elastography tuyến vú, có đối chiếu với kết quả mô bệnh học. Phương pháp siêu âm mode-B có độ nhạy 94,1%, độ đặc hiệu 57,1%, giá trị dự báo dương tính 84,2% và giá trị dự báo âm tính 80%, độ chính xác 83,3%. Khi phối hợp siêu âm mode-B với siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng đã làm tăng giá trị chẩn đoán với độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 71,4%, giá trị dự báo dương tính 89,5%, giá trị dự báo âm tính 100%, độ chính xác 91,7%. Kết luận: Siêu âm đàn hồi mô có thểchẩn đoán các tổn thương BI-RADS 3 và 4a tốt hơn, đặc biệt khi phối hợp vớisiêu âm vú mode -B, có thể tăng hoặc giảm bậc BI-RADS, làm tăng giá trị chẩn đoán của siêu âm từ 83,3% lên91,7%.
#siêu âm mode-B #siêu âm đàn hồi mô mức biến dạng #Strain Elastography #ung thư vú
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ SIÊU ÂM ĐÀN HỒI SÓNG BIẾN DẠNG TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VÚ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá giá trị chẩn đoán ung thư vú của phương pháp siêu âm đàn hồi sóng biến dạng – Shear wave elastography (SWE). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 60 bệnh nhân nữ với 62 khối u vú được siêu âm bằng B - mode, phân loại BI-RADS 3, 4a/b/c, 5; được siêu âm đàn hồi sóng biến dạng để đánh giá về mặt định lượng độ cứng của khối u thông qua giá trị vận tốc sóng biến dạng (m/s). Từ đó đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu, ngưỡng cut-off của phương pháp siêu âm này trong chẩn đoán u vú lành, ác tính. Kết quả: 60 bệnh nhân nữ có u vú (47 lành tính, 15 ung thu vú được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học). Giá trị trung bình về vận tốc sóng biến dạng của các tổn thương lành tính là 2,61 ± 0,52m/s và ác tính là 5,85 ± 1,18m/s. Diện tích dưới đường cong ROC (AUC) là 0,997. Vận tốc trung bình ở ngưỡng cắt 3,79m/s có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 95,7%. Kết luận: Siêu âm đàn hồi sóng biến dạng hứa hẹn là kỹ thuật có độ nhạy, độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán các tổn thương vú, rất hữu ích trong việc phân biệt tổn thương ác tính và lành tính của tuyến vú.
#tổn thương vú #chẩn đoán #siêu âm B – mode #siêu âm đàn hồi #ung thư vú
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH SIÊU ÂM CỦA HẠCH CỔ DI CĂN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ TUYẾN GIÁP THỂ BIỆT HÓA SAU PHẪU THUẬT VÀ ĐIỀU TRỊ 131I
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục đích: Mục đích của nghiên cứu là đánh giá các đặc điểm siêu âm của hạch cổ di căn ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa sau phẫu thuật và điều trị 131I. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu, mô tả cắt ngang 61 bệnh nhân với 123 hạch cổ. Bệnh nhân được phẫu thuật vét hạch làm mô bệnh học tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 trong thời gian từ tháng 10/2020 đến tháng 4/2021. Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành siêu âm ở 123 hạch vùng cổ. Đối chiếu với kết quả giải phẫu bệnh, có 73 hạch di căn, 50 hạch không di căn. Hình dạng tròn, mất rốn hạch, hồi âm, vôi hóa và mạch máu bất thường gặp ở hạch di căn hơn so với hạch không di căn, trong khi ranh giới và kích thước không khác biệt đáng kể. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các đặc điểm trên siêu âm về hình dạng tròn, hồi âm, vôi hóa, mất rốn hạch và tăng sinh mạch bất thường là những tiêu chuẩn siêu âm hữu ích để phân biệt giữa các hạch cổ di căn và không có di căn trên bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa đã phẫu thuật và điều trị 131I.
#siêu âm B-mode #siêu âm Doppler màu #mô bệnh học #di căn hạch
Tổng số: 32   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4